Huyện Kim Thành là một trong những huyện của tỉnh Hải Dương có nhiều bến, bãi hoạt động trên nhiều tuyến đê như Tả Lai Vu, Hữu Kinh Môn, Tả Lạch Tray; nhưng cũng là địa phương còn tồn tại trong công tác quản lý hoạt động bến, bãi ven sông.

Xã Ninh Thành gần với xã, phường nào?

Thông tin về Xã Ninh Thành, Huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương liên tục được cập nhật tại tinbds.com. Nếu bạn thấy thông tin không chính xác, vui lòng góp ý với ban quản trị website tinbds.com. Chúng tôi xin chân thành cảm ơn đóng góp của bạn. Từ khóa tìm kiếm:Xã Ninh Thành, Huyện Ninh Giang, Tỉnh Hải Dương: bản đồ vị trí, các dự án, phường quận huyện thị xã thành phố trực thuộc. Điện thoại UBND, hình ảnh về Ninh Thành, Ninh Giang, Hải Dương

Các quận huyện khác tại Hải Dương

Từ trên xuống dưới, từ trái sang phải:

, phố cổ, nhà thờ Hội thánh Tin Lành, nghĩa trang liệt sỹ

Vị trí thành phố Hải Dương trên bản đồ Việt Nam

Hải Dương là thành phố tỉnh lỵ của tỉnh Hải Dương, Việt Nam. Thành phố Hải Dương là trung tâm kinh tế, kỹ thuật, giáo dục, khoa học, y tế, dịch vụ của tỉnh Hải Dương, nằm trong vùng thủ đô Hà Nội và tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh.

Thành phố Hải Dương nằm trong tam giác kinh tế Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh, ở vị trí trung tâm tỉnh Hải Dương, cách Thủ đô Hà Nội 57 km về phía Đông, cách thành phố Hải Phòng 45 km về phía Tây, có vị trí địa lý:

Sông ngòi: Các sông lớn chảy qua thành phố gồm có sông Thái Bình đi qua giữa thành phố, ở phía Nam có sông Sặt, chi lưu sông Thái Bình. Sông Kinh Thầy ở phía Đông phân định phường Ái Quốc (thành phố Hải Dương) và xã Lai Vu (huyện Kim Thành). Ngoài ra còn có hồ Bạch Đằng, Bình Minh là những hồ lớn của thành phố.

Thành phố Hải Dương có 24 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 18 phường: Ái Quốc, Bình Hàn, Cẩm Thượng, Hải Tân, Lê Thanh Nghị, Nam Đồng, Ngọc Châu, Nguyễn Trãi, Nhị Châu, Quang Trung, Tân Bình, Tân Hưng, Thạch Khôi, Thanh Bình, Trần Hưng Đạo, Trần Phú, Tứ Minh, Việt Hòa và 6 xã: An Thượng, Gia Xuyên, Liên Hồng, Ngọc Sơn, Quyết Thắng, Tiền Tiến.

Hải là miền duyên hải, vùng đất giáp biển (Hải Dương xưa bao gồm một miền đất rộng lớn kéo dài từ Hưng Yên đến vùng biển Hải Phòng). Dương là ánh sáng, ánh mặt trời. Hải Dương nằm ở phía đông kinh thành Thăng Long. Hướng Đông cũng là hướng mặt trời mọc. Vì vậy Hải Dương có nghĩa là "ánh mặt trời biển Đông" hay "ánh sáng từ miền duyên hải (phía Đông) chiếu về". Tên gọi Hải Dương chính thức có từ năm 1469.[7]

Trước năm 1804, lỵ sở của tỉnh Hải Dương được đặt tại Lạc Thiên (Chí Linh), lúc ấy gọi là thành Vạn hay doanh Vạn. Sau đó dời về làng Mao Điền (Cẩm Giàng). Năm Gia Long thứ 3 (1804) để củng cố bộ máy cai trị, nhà Nguyễn đã phân chia lại địa giới hành chính của cả nước, do vậy lỵ sở Hải Dương đã được dời từ Mao Điền về phía đông 15 km ở vùng ngã ba sông Thái Bình và sông Sặt, thuộc địa phận ba xã Hàn Giang, Hàn Thượng và Bình Lao của huyện Cẩm Giàng. Một ngôi thành được Tổng đốc Trần Công Hiến cho khởi công để làm trụ sở cho bộ máy và đồn trú quân sự, gọi là Thành Đông, với mục tiêu vừa là trấn thành, vừa án ngữ phía đông Kinh thành Thăng Long. Thành Đông lúc này là một trong 4 thành trong Thăng Long tứ trấn.[cần dẫn nguồn] Đây được xem như thời điểm khởi lập của thành phố Hải Dương.

Thành Đông ban đầu không có dân, chỉ có quan lại và quân lính. Đến năm 1866 (năm Tự Đức thứ 19), Đông Kiều phố được hình thành (tương ứng với phường Trần Phú và một phần phường Trần Hưng Đạo ngày nay) với đơn vị hành chính: Phố - Giáp với 3 phố: Đông Kiều phố, Đông Mỹ phố, Tự Tân phố; nhiều phố nghề ra đời như Hàng Giày - Rue Des Cordonnier (phố Sơn Hòa ngày nay), Hàng Đồng – Rue du cuivre (Đồng Xuân), Hàng Bạc – Rue des Changeurs (Xuân Đài), Hàng Lọng – Rue des parasols (Tuy An). Trong đó, phố Hàng Lọng chính là biểu tượng cho nền giáo dục của xứ Đông, vinh danh những người con đỗ đạt cao về vinh quy bái tổ. Ngoài các phố cổ mang tên nghề nghiệp như trên thì các phố cổ khác đều được bắt đầu bằng chữ "Đông" (sau khi giải phóng thành phố vào ngày 30 tháng 10 năm 1954, Hải Dương kết nghĩa với Phú Yên và nhiều tuyến phố được đổi tên theo địa danh của tỉnh Phú Yên như ngày nay).

Năm 1889, Thành Đông bị thực dân Pháp.[8] phá bỏ để lấy mặt bằng xây dựng nhà máy rượu vài tòa dinh thự của người Pháp.

Năm 1923, Toàn quyền Đông Dương quyết định thành lập thành phố Hải Dương. Không gian thành phố được chia thành hai khu vực: khu hành chính - nằm ven sông Sặt và khu kinh tế - từ Nhà máy rượu đến Nhà ga xe lửa. Các công sở và dinh thự của quan chức người Pháp được tập trung ven sông Sặt. Một số tòa dinh thự mang kiến trúc Pháp hiện nay vẫn còn được sử dụng như dinh Công sứ (nhà làm việc và nhà khách Tỉnh ủy), Sở Lục bộ (Sở Giao thông), nhà Séc-tây (Sở Thể dục – Thể thao cũ), Kho bạc (Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh), dinh Phó sứ (Sở Văn hóa – Thể thao & du lịch),... Với vị trí thuận lợi về giao thông và phát triển kinh tế, văn hóa; thành phố Hải Dương đã trở thành một trong 4 thành phố quan trọng nhất của Bắc Kỳ thời ấy cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Nam Định.

Tháng 3 năm 1947, nhà cầm quyền Pháp chia thành phố Hải Dương thành 2 quận, rồi sau đó một thời gian lại chuyển thành thị xã.

Ngày 30 tháng 10 năm 1954, thị xã Hải Dương chính thức được đặt dưới quyền kiểm soát của chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thị xã được chia làm 5 khu phố: Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trần Phú. Mỗi khu phố có một số đường phố và xóm nhỏ.

Năm 1959, thị xã được tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và quy hoạch đô thị với quy mô dân số từ 40.000 đến 50.000 người.

Ngày 26 tháng 1 năm 1968, thị xã Hải Dương được chọn làm tỉnh lỵ của tỉnh Hải Hưng mới thành lập.[9]

Ngày 14 tháng 8 năm 1969, thị xã Hải Dương được sáp nhập thêm xã Ngọc Châu của huyện Nam Sách.[10]

Ngày 11 tháng 3 năm 1974, thành lập xã Hải Tân gồm có các thôn: Bảo Tháp, Phúc Duyên, Bá Liễu.[11]

Sau năm 1975, thị xã Hải Dương có 5 phường: Nguyễn Trãi, Phạm Ngũ Lão, Quang Trung, Trần Hưng Đạo, Trần Phú và 7 xã: Bình Hàn, Cẩm Thượng, Hải Tân, Ngọc Châu, Thanh Bình, Tứ Minh, Việt Hòa.

Ngày 28 tháng 10 năm 1996, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/CP về việc thành lập các phường Bình Hàn, Cẩm Thượng, Hải Tân, Ngọc Châu, Thanh Bình (trên cơ sở các xã có tên tương ứng) và tách một số khu dân cư của phường Trần Phú để thành lập phường Lê Thanh Nghị.[12]

Từ ngày 6 tháng 11 năm 1996, thị xã trở lại là tỉnh lỵ tỉnh Hải Dương mới được tái lập.[13]

Năm 1997, Bộ Xây dựng ban hành Quyết định về việc công nhận thành phố Hải Dương là đô thị loại III.

Ngày 6 tháng 8 năm 1997, Chính phủ ban hành Nghị định số 88-CP về việc thành lập thành phố Hải Dương trên cơ sở toàn bộ diện tích tự nhiên, dân số của thị xã Hải Dương.[1]

Thành phố Hải Dương có 3.626,8 ha diện tích tự nhiên và 143.895 người với 13 đơn vị hàng chính trực thuộc, gồm 11 phường và 2 xã.

Ngày 19 tháng 3 năm 2008, Chính phủ ban hành Nghị định 30/2008/NĐ-CP[14]. Theo đó:

Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, thành phố Hải Dương có 7.138,60 ha diện tích tự nhiên và 187.405 người với 19 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 13 phường và 6 xã.

Ngày 17 tháng 5 năm 2009, thành phố Hải Dương được công nhận là đô thị loại II.[15]

Ngày 23 tháng 9 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính phường và thành lập các phường Nhị Châu (tách ra từ phường Ngọc Châu) và Tân Bình (tách ra từ phường Thanh Bình) thuộc thành phố Hải Dương[16].

Ngày 29 tháng 12 năm 2013, Chính phủ ban hành Nghị quyết về việc thành lập các phường Ái Quốc và Thạch Khôi trên cơ sở các xã có tên tương ứng[17].

Ngày 17 tháng 5 năm 2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 580/QĐ-TTg công nhận thành phố Hải Dương mở rộng đạt tiêu chí đô thị loại I trực thuộc tỉnh Hải Dương.[2]

Ngày 16 tháng 10 năm 2019, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 788/NQ-UBTVQH14 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2019)[18]. Theo đó:

Ngày 24 tháng 10 năm 2024, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 1250/NQ-UBTVQH15[19] về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp xã của tỉnh Hải Dương giai đoạn 2023 – 2025 (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 12 năm 2024). Theo đó, sáp nhập phường Phạm Ngũ Lão vào phường Lê Thanh Nghị.

Thành phố Hải Dương có 18 phường và 6 xã như hiện nay.

Tốc độ tăng trưởng của thành phố luôn ở mức 14 - 18%/năm. Thu nhập bình quân đầu người ở mức 90 triệu đồng/người/năm vào năm 2018.

Thành phố Hải Dương là trung tâm công nghiệp, thương mại và dịch vụ của tỉnh, đồng thời là một trong những trung tâm về công nghiệp của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.Thành phố Hải Dương hiện là 1 đô thị trong vùng Thủ đô Hà Nội. Cùng với các thành phố Thái Nguyên, Việt Trì, thành phố Hải Dương sẽ được đầu tư để trở thành một trong 3 đô thị cấp trung tâm vùng (đô thị cấp 1) và là một trung tâm công nghiệp của toàn vùng.[20]

Trước đây, ngành công nghiệp của thành phố Hải Dương chủ yếu được biết đến qua sự đóng góp của Nhà máy Sứ Hải Dương, Công ty Chế tạo Bơm Hải Dương, các cơ sở sản xuất bánh đậu xanh và một số nhà máy khác. Mặt khác, sau năm 2000, với lợi thế về giao thông, thương mại..., tỉnh và thành phố đã triển khai quy hoạch xây dựng các khu - cụm công nghiệp:

KCN Đại An được thành lập ngày 24/3/2003. Vị trí Km 51, Quốc lộ 5, Thành phố Hải Dương. KCN Đại An có vị trí giao thông hết sức thuận lợi, dọc theo tuyến đường cao tốc số 5 nối liền thủ đô Hà Nội với cảng Hải Phòng, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, KCN cách thủ đô Hà Nội 50 km, sân bay Nội Bài 80 km, cảng Hải Phòng 51 km, cảng nước sâu Cái Lân 82 km, ga đường sắt Cao Xá 1,5 km, cảng sông Tiên Kiều 2 km. Tổng diện tích 664 ha: diện tích khu I là 189,82 ha (170,82 ha đất công nghiệp và 19 ha đất khu dân cư phục vụ công nghiệp), khu II là 474 ha (trong đó diện tích đất công nghiệp là 403 ha, diện tích đất Khu dân cư là 71 ha). Được đầu tư xây dựng đồng bộ, và hiện đại gồm: hệ thống cấp điện, cấp nước, thoát nước, giao thông, thông tin liên lạc, hệ thống chiếu sáng, trung tâm kho vận, an ninh, môi trường và cây xanh,... Hiện tại đã có 31 dự án đã cấp giấy phép, tổng số vốn đầu tư của các dự án trong KCN là 422 triệu USD; vốn đã thực hiện 250 triệu USD; vốn đầu tư trung bình 1 ha đất là 4,7 triệu USD; số lượng công nhân sử dụng trong KCN khoảng 6.800 người, trong đó NLĐ địa phương là 5.780 người, chiếm tỷ lệ 85%. Hiện nay KCN đã thu hút được nhiều doanh nghiệp của các quốc gia trên thế giới: Mỹ, Nhật, Pháp, Đức, Hàn Quốc, Trung Quốc, Malaysia, Đài Loan và Việt Nam.

Hệ thống cơ sở hạ tầng, dịch vụ, an sinh xã hội đồng bộ: tư vấn thành lập doanh nghiệp và các thủ tục xin cấp giấy phép đầu tư; dịch vụ tư vấn thiết kế và thi công xây dựng; dịch vụ vận chuyển hàng hóa; Dịch vụ kho tàng chứa trữ hàng hóa; dịch vụ bảo hiểm, thủ tục hải quan xuất nhập khẩu; hỗ trợ tuyển dụng công nhân; khu nhà ở cho chuyên gia và công nhân thuê[21]. Hiện tại Bệnh viện Quốc tế Đại An Việt Nam Canada (Dai An Vietnam Canadian International Hospital) Quy mô vốn đầu tư 200 triệu USD, 200 giường bệnh, đang được khởi công xây dựng.[22]

KCN Nam Sách được thành lập ngày 27/02/2003. Vị trí nằm trên trục đường Quốc lộ 5 nối liền Hà Nội - Hải Phòng và Quốc lộ 183 nối liền các trung tâm kinh tế lớn như Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, sân bay quốc tế Nội Bài, cửa khẩu quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) và các cảng biển quốc tế, rất thuận tiện cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá. Tổng diện tích là 60,2 ha. Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ hiện đại: Nguồn điện 30.000 KVA. Nguồn nước 4.500 m³/ngày đêm. Thoát nước - Xử lý nước thải và chất thải rắn đạt tiêu chuẩn mức B công suất 3.600 m3/ngày. Thông tin liên lạc đạt tiêu chuẩn quốc tế đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc đạt 9-11 lines/ha. Hệ thống cáp quang ngầm được đấu nối trực tiếp đến chân hàng rào từng doanh. Hệ thống đường giao thông nội bộ: hệ thống đường khu trung tâm rộng 27m; đường chính rộng 16,5; đường nhánh, đường gom rộng 13,5m. Hệ thống phòng cháy chữa cháy đạt tiêu chuẩn quốc gia, các trụ cứu hoả được bố trí dọc theo trục đường KCN (khoảng 100-120m/1trụ). Hải quan mọi thủ tục hải quan được thực hiện tại cảng cạn (ICD) cách KCN 3 km.

Hiện KCN Nam Sách có tổng số trên 20 nhà đầu tư trong và ngoài nước: Toyo Denso, Okamoto của Nhật Bản, Ever Glory của Hồng Kông, Chyun Jaan của Đài Loan, Công ty Nam Tiến, Công ty Hồng Gia, Công ty Kiến Hưng của Việt Nam,... Khu công nghiệp đi vào hoạt động đã góp phần tạo việc làm cho hàng nghìn lao động tại địa phương và các vùng lân cận, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng nguồn thu cho ngân sách của tỉnh.[23]

Cảng nội địa Hải Dương được thành lập ngày 09 tháng 9 năm 2002. Vị trí nằm ở trung tâm vùng kinh tế trọng điểm Đồng bằng Bắc Bộ, cách Hà Nội 55 km, cách Sân bay quốc tế Nội Bài 90 km, cách cảng Hải Phòng 55 km, cách cảng Cái Lân 120 km.

Có cơ sở hạ tầng kỹ thuật đồng bộ hiện đại:

Sự phát triển mạnh mẽ, nhanh chóng về không gian và kết cấu hạ tầng đô thị đã tạo ra động lực to lớn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của TP Hải Dương đóng góp tỉ trọng lớn trong GDP chung của tỉnh với mức tăng trưởng kinh tế trong nhiều năm liền đều đạt bình quân hơn 14%/năm, nằm trong tốp các địa phương có tốc độ tăng trưởng cao nhất khu vực. Trong cơ cấu kinh tế chung của thành phố, công nghiệp, thương mại, dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng lớn, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.

Hiện tại, ngành công nghiệp - xây dựng đã chiếm tỷ lệ 55,5%; thương mại dịch vụ 40,3%; nông nghiệp thủy sản chỉ còn 4,2%. TP đã quy hoạch xây dựng được 30 điểm chợ, siêu thị, trung tâm thương mại với 5.800 hộ kinh doanh.[25]

Ngành thương mại phát triển tương đối đồng đều tại các phường, xã. Trong đó, hàng hóa chủ yếu được lưu thông qua hệ thống bán lẻ.

Thành phố Hải Dương có các tuyến phố thương mại chính như Đồng Xuân, Đại lộ Hồ Chí Minh, Ngân Sơn, Phạm Hồng Thái, Phạm Ngũ Lão, Quang Trung, Thống Nhất, Trần Bình Trọng, Đại lộ Trần Hưng Đạo, Trần Phú, Tuy An, Tuy Hòa, Đoàn Kết, Xuân Đài, Đại lộ Lê Thanh Nghị,... Ngoài ra, còn có các phố chợ Bắc Kinh, Chi Lăng, Chợ Con, Hải Tân, Phú Yên,...

Hải Dương là nơi nổi tiếng với nhiều đặc sản mang đậm hương vị của đồng bằng Bắc Bộ như: Bánh đậu xanh, Bánh khảo, Cốm (An Châu). Thêm vào đó là những Bánh gai Ninh Giang, Vải thiều Thanh Hà… mang từ các huyện lên. Các món ăn ngon được biết đến nhiều của thành phố Hải Dương: Bún cá, Bánh đa cua, Bánh cuốn, Bánh đúc,...

Thành phố Hải Dương có nhiều quán ăn đêm nằm rải rác ở nhiều tuyến phố, rất phong phú và đa dạng như phố Mạc Thị Bưởi nổi tiếng với các món ăn đường phố, bán từ chiều tối đến tận khuya, có thể ăn tại chỗ hoặc gói mang về, với những hàng xôi hộp, bánh bao, bánh mì pa-tê, bánh cuốn hấp, phở, miến, cháo, gà tần, tim tần thuốc bắc. Một phố khác được nhiều người biết đến là phố Phạm Hồng Thái, nổi danh là phố ẩm thực của Thành Đông với nhiều món ăn ngon và đa dạng, đặc biệt là món cháo, bánh cuốn.

Hạ tầng: Hiện nay trên địa bàn thành phố Hải Dương đã và đang hình thành một số khu đô thị lớn, cao cấp như: khu đô thị Tuệ Tĩnh, khu đô thị Nam thành phố Hải Dương, khu đô thị Tân Phú Hưng, khu đô thị Phú Quý, khu đô thị Thạch Khôi, khu đô thị Việt Hòa, khu đô thị Nam cầu Hàn, làng Việt kiều Âu Việt, khu đô thị EcoRiver,...

Các trường THPT Công lập và Tư thục:

Các trường Trung cấp chuyên nghiệp – Cao đẳng – Đại học:

Thành phố Hải Dương có diện tích 36,27 km² và dân số năm 1995 là 143.895 nhân khẩu.

Thành phố Hải Dương có diện tích 71,39 km² và dân số năm 2006 là 187.405 nhân khẩu.

Thành phố Hải Dương có diện tích 71,39 km² và dân số năm 2009 là 187.405 nhân khẩu.

Thành phố Hải Dương có diện tích 71,38 km² và dân số năm 2011 là 253.893 nhân khẩu.

Thành phố Hải Dương có diện tích 111,22 km², dân số năm 2017 là 507.469 người. Trong đó, dân số thường trú là 279.729 người và dân số tạm trú quy đổi là 227.740 người.

Thành phố Hải Dương có diện tích 111,64 km², quy mô dân số quy đổi năm 2018 là 508.190 người.

Thành phố Hải Dương có diện tích 111,64 km², dân số thường trú ngày 1/4/2019 là 241.373 người.[28]

Thành phố Hải Dương có diện tích 111,64 km², quy mô dân số năm 2019 là 300.638 người. Trong đó: thành thị là 234.932 người và nông thôn là 65.706 người.

Thành phố Hải Dương có diện tích 111,68 km², dân số quy đổi tính đến ngày 31/12/2022 là 312.606 người. Trong đó: dân số thường trú là 307.506 người và dân số tạm trú quy đổi là 5.100 người.[3]

Thành phố Hải Dương có một hệ thống giao thông đường thủy khá thuận lợi. Từ thành phố Hải Dương, theo hệ thống sông Thái Bình, tàu thuyền có thể xuôi ra Cảng Hải Phòng, hoặc ngược lên các tỉnh miền núi trung du phía Bắc.

Cảng Cống Câu là cảng đường thủy nội địa có chức năng là nơi bốc dỡ hàng hóa - chủ yếu là nguyên vật liệu - đến và đi các tỉnh thành khác, cảng có công suất 300.000 tấn /năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thủy một cách thuận lợi.

Hệ thống đường sắt Hà Nội- Hải Phòng đi qua địa phận thành phố Hải Dương khoảng 13 km, bắt đầu từ phường Việt Hòa và kết thúc tại phường Ái Quốc. Kết nối với các tỉnh thành khác tại ga Hải Dương- đầu mối giao thông đường sắt của toàn tỉnh, và Tiền Trung là nhà ga trung chuyển của khu vực Đông Bắc tỉnh.

Hiện tại, có tất cả 16 tuyến xe buýt xuất phát từ thành phố Hải Dương đi đến trung tâm các huyện trong tỉnh Hải Dương và các tỉnh, thành lân cận.

Sáng 5/2, Trung tâm Giáo dục nghề nghiệp - Giáo dục thường xuyên thành phố Hải Dương phối hợp với Hội Chữ thập đỏ thành phố, Ngân hàng Vietinbank chi nhánh Hải Dương tổ chức chương trình “Tết xum vầy”.

Tại chương trình, Ban lãnh đạo Trung tâm đã trao tặng nhiều suất quà gồm nhu yếu phẩm như: gạo, mì và quà tết cho các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn, có nhiều cố gắng trong học tập và rèn luyện tại trung tâm. Nhân dịp tết đến xuân về, Ban lãnh đạo trung tâm gửi lời chúc tết, động viên các em học sinh tiếp tục nỗ lực, cố gắng để đạt thành tích cao trong học tập, đón tết vui tươi, an toàn.

Đây là hoạt động ý nghĩa, thiết thực, giúp các em có thêm niềm tin để vươn lên trong học tập, đón một cái tết ấm áp, đủ đầy.

T/h: Đài phát thanh TP Hải Dương

Đình Đồng Nhân thờ Thành Hoàng làng là Xà Nương công chúa một trong nhiều tướng lĩnh đã cùng Hai Bà Trưng đánh đuổi quân xâm lược nhà Hán. Hiện nay ngôi đình đã tồn tại gần hai thế kỷ trải qua mưa nắng vào thời gian một số điều kiện của di tích đã bị hiện tượng mối mọt.

Đền Đức Hoàng xã Phúc Thành (Yên Thành) - Di tích Lịch sử văn hóa Quốc gia đã và đang là điểm đến hấp dẫn của người dân trong tỉnh, nhất là dịp lễ hội đầu Xuân

Đền Đức Hoàng tọa lạc giữa một không gian xanh với hệ thực vật phong phú, lâu đời, hiếm có. Cửa đền hướng ra hồ Diệu Ốc - một trong 8 cảnh đẹp nổi tiếng của huyện Đông Thành xưa

Theo sử sách, đền Đức Hoàng được khởi dựng từ thời Trần, ban đầu chỉ là ngôi miếu nhỏ, đến năm 1505, thượng điện được xây tường, lợp ngói, năm 1882 xây tòa trung điện và đến năm 1936 xây thêm nhà hạ điện. Kiến trúc đền Đức Hoàng được bố trí theo kiểu chữ “Tam”, đến nay hầu như vẫn còn lưu giữ được nguyên vẹn kiến trúc cổ thời Lê – Nguyễn cùng nhiều công trình phụ trợ khác như nghi môn, sân, vườn, giếng nước.

Tòa hạ điện có 3 gian, 4 vì kết cấu theo kiểu giao nguyên, trên vòm cuốn trang trí bộ tứ linh và hoa văn cách điệu. Gian giữa xây chồng diêm kiểu vọng lâu, mái lợp ngói âm dương.

Trong ảnh: Rồng đá trước thềm hạ điện. Ảnh: Huy Thư

Nhà trung điện gồm 3 gian, 2 hồi, kết cấu kiểu tứ trụ, bài trí 3 cung thờ. Nét độc đáo khác của đền Đức Hoàng là cột nhà được kê trên những hòn đá vuông có chân cột cao khoảng 0,3m.

Trong ảnh: Đá táng độc đáo ở trung điện. Ảnh: Huy Thư

Kiến trúc đền Đức Hoàng tuy khiêm tốn nhưng mang vẻ đẹp cổ kính, trầm mặc, linh thiêng với những chi tiết trang trí tinh tế, mềm mại. Trong ảnh: Mặt trước tòa thượng điện.

Trong ảnh: Mặt trước tòa thượng điện. Ảnh: Huy Thư

Đền Đức Hoàng thờ Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn, vị tướng tài ba có công lớn trong cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông ở thế kỷ XIII. Ngoài ra, đền còn phối thờ thần rắn, đức Thánh Trần, Liễu Hạnh Công chúa, Bạch Y Công chúa,... Năm 1998, đền đã được Nhà nước công nhận Di tích Lịch sử văn hóa cấp Quốc gia. Năm 2022, UBND tỉnh công nhận đền là điểm du lịch

Bên cạnh đền Đức Hoàng, giữa vườn cây râm mát còn có 1 ngôi chùa cổ gọi là chùa Yên Lạc được xây dựng từ xưa, nay cũng được tôn tạo khang trang.

Với đạo lý “Uống nước nhớ nguồn”, tri ân các bậc tiền nhân, hàng năm, cứ vào dịp đầu Xuân (từ ngày 29/1 - 1/2 âm lịch), nhân dân huyện Yên Thành và du khách thập phương lại nô nức khai hội đền Đức Hoàng. Đây là một trong những lễ hội được tổ chức với quy mô lớn trong vùng thu hút đông đảo du khách thập phương về tham dự.

Chương trình lễ hội khá phong phú gồm: lễ khai quang, lễ yết cáo, lễ rước, lễ tế thần, lễ tạ, lễ cáo, thi đấu bóng chuyền, đánh cờ người, hát ví – giặm, hội thi Thanh niên thanh lịch, thả hoa đăng, kéo co, đẩy gậy, đu tiên, chọi gà, đi cầu kiều

Trẩy hội đền Đức Hoàng là tìm về với cội nguồn văn hóa tâm linh, là dịp để mọi người được hòa mình vào không gian lễ hội linh thiêng, tham quan, chiêm bái, thể hiện tấm lòng thành kính đối với các bậc tiền nhân, đồng thời trải nghiệm, thưởng thức, mua sắm những đặc sản nổi tiếng của quê lúa

Lễ hội đền Đức Hoàng hàng năm là một trong những sinh hoạt văn hóa cộng đồng chủ đạo trong vùng, với quy mô cấp huyện, là một sinh hoạt văn hóa mang tính hệ thống, tính phức hợp, bao gồm sinh hoạt tín ngưỡng, nghi lễ, các sinh hoạt diễn xướng dân gian, các cuộc thi tài, vui chơi...

Thông qua việc tổ chức và duy trì hoạt động lễ hội để cố kết và biểu dương sức mạnh cộng đồng, sức sống của vùng đất giàu truyền thống văn hóa dân gian, truyền thống “uống nước nhớ nguồn”.